Theo TS Nguyễn Tấn Sỹ, Phó Viện trưởng Viện Nuôi trồng thủy sản (Đại học Nha Trang) nghề nuôi tôm nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng) công nghiệp đang gây sức ép rất lớn đến môi trường nuôi. Ước tính, khoảng 30% lượng nitơ từ thức ăn được tích lũy thành sinh khối trong cơ thể tôm, 70% lượng nitơ còn lại thải vào môi trường qua sản phẩm bài tiết của tôm và lượng thức ăn thừa.
Nhiều thách thức trong nuôi tôm nước lợ
TS Nguyễn Tấn Sỹ cho biết trong ao nuôi tôm thâm canh, 90% lượng N tích lũy trong chất thải ở dạng Amonia (NH3/NH4+). Amonia hình thành trong ao có thể do sản phẩm bài tiết của tôm hay quá trình khoáng hóa chất hữu cơ tạo nên (do vi khuẩn).
Trong khi đó, trong môi trường ao nuôi, NH3 là khí độc sẽ gây chết tôm nếu tồn tại với nồng độ cao (phụ thuộc vào pH), gây nên sự phì dưỡng, dẫn đến sự nở hoa của tảo. Tảo tàn lụi sẽ gây nên sự căng thẳng về môi trường. Xác tảo bị phân hủy lại tạo thành Amonium (NH4+).
Nghề nuôi tôm nước lợ cũng đang gặp nhiều khó khăn thách thức bởi dịch bệnh bùng phát khắp nơi, giá thành cao, hiệu quả kinh tế thấp. Dư lượng kháng sinh và hóa chất độc hại cũng là vấn đề gây nhiều nhức nhối đối với tôm xuất khẩu.
Để nghề nuôi tôm nước lợ Việt Nam phát triển bền vững, cần nhiều giải pháp đồng bộ như giảm mật độ nuôi để hạn chế rủi ro; kiểm soát chặt chẽ lượng thức ăn để hạ giá thành sản phẩm; luân canh, xen vụ (có thể nuôi cá chẽm, rô phi, cá măng, hải sâm…) nhằm thay đổi đối tượng, hạn chế dịch bệnh. Hoặc nuôi ghép với các đối tượng khác để dọn sạch chất thải và khí độc trong ao nuôi.
Ngoài ra, cần áp dụng giải pháp nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy và tái sử dụng nước (RAS); sử dụng công nghệ Biofloc; sử dụng công nghệ Copefloc; ứng dụng công nghệ sinh học như sử dụng chế phẩm vi sinh (Probiotics) trong cải tạo ao, xử lý nước cấp, xử lý nước trong quá trình nuôi, xử lý nước thải, xử lý chất thải...
Hiện nay, việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm nước lợ sẽ giải quyết được nhiều các vấn đề.
Các chế phẩm vi sinh kích thích sự phát triển các vi khuẩn có lợi, cạnh tranh môi trường sống, làm giảm số lượng vi khuẩn có hại, ổn định môi trường ao nuôi, giúp chuyển hoá các chất hữu cơ như thức ăn dư thừa, xác tảo, cặn bã thành chất vô cơ không độc hại cho tôm nuôi.
Bên cạnh đó, chế phẩm vi sinh giúp chuyển các chất độc hại như NH3, NO2- thành các chất không độc như NO3- , NH4+, từ đó làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi.
Trong ruột tôm, các chế phẩm vi sinh kích thích vi khuẩn có lợi phát triển, cạnh tranh để giảm dần số lượng vi khuẩn gây bệnh đường ruột. Đồng thời, tham gia quá trình biến dưỡng tạo vitamin, chuyển hóa các chất dinh dưỡng từ thức ăn cung cấp năng lượng cho tôm nuôi, cũng như tiết ra một số chất kháng sinh, enzym hay hoá chất kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh, nâng cao sức khỏe và sức đề kháng cho tôm nuôi, kích thích quá trình bắt mồi và chuyển hoá thức ăn, nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.
Những lưu ý khi sản xuất và sử dụng sản phẩm vi sinh
Theo TS Nguyễn Tấn Sỹ, hiện nay, Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu, công nghệ và quy trình được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất đa dạng các chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản.
Nhìn chung, để tạo nên được sản phẩm vi sinh tốt, cần đáp ứng được một số nguyên tắc, yêu cầu cơ bản như: Khả năng tăng sinh khối nhanh; có điều kiện nuôi cấy thích hợp (nhiệt độ, pH, thời gian, oxy…..); chủng giống khi lên men phải thuần chủng; quá trình nhân sinh khối đảm bảo không tạp nhiễm...
Nguồn: https://nongnghiep.vn/luu-y-su-dung-che-pham-sinh-hoc-trong-nuoi-tom-d310360.html